Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Sự tích cây nhân sâm


Ngày xưa, có hai vợ chồng người tiều phu nghèo khổ, làm lụng vất vả quanh năm. Tờ mờ sáng đã ra đi làm, đến tối mịt mới về nhà mà cũng không kiếm đủ gạo ăn. Hai vợ chồng có một đứa con trai còn nhỏ, mỗi ngày để ở nhà cho một phần cơm chỉ ăn vừa lưng dạ. Trong cảnh thiếu ăn đó, hai vợ chồng lấy làm ngạc nhiên nhận thấy con mình ngày một béo tốt, hồng hào khỏe mạnh như đã được chăm nuôi tẩm bổ khác thường. Đứa con còn bé chưa nói năng gì được nên cha mẹ nó muốn hỏi han về sức khỏe lạ lùng của con cũng đành chịu. Được vài năm đứa bé lớn lên như thổi, bắt đầu biết trò chuyện, cha mẹ nó mới hỏi xem phần cơm mỗi ngày để dành cho con ăn có đủ không. Thằng bé trả lời chẳng biết mùi cơm ra sao vì cứ mỗi khi cha mẹ nó vừa đi khỏi nhà là bầy khỉ ở rừng kéo đến ăn sạch cơm.

Hai vợ chồng người tiều phu quá nỗi kinh ngạc, hỏi con trong mấy năm trời không cơm ăn mà sao lại được khỏe mạnh như vậy. Đứa con ngây thơ mới kể cho hay rằng trong lúc cha mẹ nó vắng nhà, có một thằng bé láng giềng cũng trần truồng như nó, vẫn đến chơi đùa, và chính đứa bé đáng yêu kia đã truyền sức khỏe sang cho nó. Nghe con nói như thế, cha mẹ nó lại càng lấy làm lạ, nghi hoặc thêm, vì chung quanh ấy lối mươi dặm chẳng có nhà cửa của ai cả. Người tiều phu nghĩ ngợi, đoán chừng đứa bé đến chơi với con mình là Người Sâm (nhân sâm), hồn của cây sâm mọc quanh quẩn gần đâu đây.

Đến sáng hôm sau, người tiều phu đi ra chợ mua một cuộn chỉ tơ mang về dặn dò con là hễ thằng bé kia đến chơi thì lấy chỉ buộc vào chân hoặc tay nó. Đứa con hứa sẽ làm theo lời cha bảo. Qua ngày hôm sau, vợ chồng người tiều phu đi khỏi nhà như lệ thường, song không vào rừng lấy củi mà rình nấp gần đấy. Nhân sâm lại đến túp lều chơi với thằng bé con người tiều phu, cũng như mọi ngày, và đứa bé theo lời cha dặn, lấy chỉ buộc vào cổ tay bạn.

Vào lúc giữa trưa, hai vợ chồng người tiều phu ra khỏi chỗ nấp, đột ngột trở về nhà, bắt gặp cả hai đứa bé đang nô đùa. Thằng bé sâm vội vàng bỏ chạy rồi biến mất vào cây. Người tiều phu lần theo dấu chỉ đã buộc vào cổ tay Nhân Sâm mà tìm ra được cây sâm. Tham và ngốc, gã hấp tấp đào xới quá mạnh tay làm chết mất thằng bé Sâm và chỉ lấy được từng miếng rễ cây sâm. Cũng vì thế mà ngày nay người ta chỉ có được các nhánh rễ sâm mường tượng hình dáng người. Người Sâm chết vì sự vụng về của gã tiều phu, từ đó Sâm không còn công hiệu giúp cho người ta được trường sinh bất tử nữa, mà uống sâm chỉ được bồi dưỡng sức khỏe thôi.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Phân loại nhân sâm

Nhân sâm là loại thuốc đại bổ, có khả năng trị nhiều căn bệnh nan y và là loại dược liệu được xếp hàng “đầu bảng”  trong Đông y. Tuy vậy, nhân sâm có rất nhiều chủng loại khác nhau theo phân loại từ nguồn gốc đến cách chế biến mà người sử dụng khó phân biệt được.


Dựa theo cách thức chế biến, nhân sâm được chia theo các loại sau:

1. Bạch sâm: Là loại sâm tươi sau khi thu hoạch được cắt bỏ rễ phụ, bào đi lớp vỏ mỏng, sau đó phơi nắng cho khô. Sau khi sơ chế có màu trắng ngà, xốp, có mùi thơm, vị ngọt.

2. Hồng sâm: Còn gọi là thạch trụ sâm, là loại nhân sâm được chưng chín từ 1-2 giờ rồi sấy khô trong 8-10 giờ. Sau khi sơ chế, tinh bột trong rễ sẽ chín và trở nên nửa trong suốt như sừng, màu hồng nhạt, mùi thơm, vị ngọt, hơi đắng.

3. Đại lực sâm: Là loại nhân sâm sau khi thu hoạch được trần qua nước sôi.

4. Đường sâm: Là loại nhân sâm được ngâm tẩm trong nước đường đặc. Đường sâm có màu trắng ngà, rễ chính hình trụ, mập và ngắn, phần đỉnh có thân rễ dài nhỏ, phía trên nó có các chỗ lõm hình xoáy trôn ốc đan xen vào nhau, tuổi đời càng lâu thì thân rễ càng dài. Bên cạnh thân rễ thường mọc ra 1 hoặc vài sợi rễ. Đầu trên rễ chính có vằn dày, phía dưới thường phân nhánh. Mặt cắt ngang có màu nâu trắng ngà, có vằn hình tia.

5. Cáp bì sâm: Là loại nhân sâm được ngâm qua nước sôi một lượt, sau đó ngâm trong nước đường loãng.

6. Nhân sâm tu: Là rễ, râu nhân sâm. Có hai loại là râu nhân sâm phơi sống và râu hồng sâm.

Dựa theo nguồn gốc, nhân sâm được chia thành sâm rừng và sâm trồng trong đó sâm rừng là loại sâm mọc hoang trong rừng và thường có số lượng ít nhưng chất lượng tốt hơn sâm trồng. Hình dáng của hai loại sâm này khá giống nhau, các bạn có thể dựa vào những đặc điểm dưới đây để phân biệt được hai loại sâm này:

- Đầu rễ của sâm trồng hơi ngắn, bát rễ tương đối ít. Đầu rễ sâm rừng nhỏ dài, bát rễ sâu và dày, đầu rễ cong hình giống cổ nhọn, có rễ tròn.

- Thân của sâm trồng dài, phần vai có các vằn ngang hơi thưa, nông, không liên tục. Thân sâm rừng giống như thân hoàng tinh, dài bằng hoặc ngắn, nhỏ hơn, đầu rễ vằn, chỗ vai nhỏ mà sâu, màu đen, phần nhiều có hình xoáy ốc liên tục.

- Vỏ sâm trồng ráp và xốp giòn, còn vỏ sâm rừng mịn và chắc.

- Thân sâm trồng tương đối nhiều, thường từ 3 nhánh trở lên, trên dưới to nhỏ không đều. Thân sâm rừng chỉ có 1-2 nhánh, rất ít gặp loại có 3 nhánh.


Phân biệt sâm thật, giả

Nhân sâm giả thường được làm từ đậu đũa dại, sâm đất, thương lục, và hoa sơn sâm, trong đó sâm đất và thương lục hay được dùng nhất. Cách nhận biết:

1. Loại giả từ sâm đất: có hình nón hoặc hình thoi, phân ra nhiều nhánh, dài khoảng 15-20 cm, đầu đỉnh là gốc sót lại của rễ. Khi chưa gia công, bề mặt có màu đen nâu, thô ráp, nhiều vằn. Sau khi đã gia công, bề mặt có vằn rúm màu vàng nâu, thô ráp, chất giòn, dễ bẻ gãy, có chất keo trong mờ, vị ngọt.

2. Loại giả từ thương lục: có hình trụ, đầu trên khá giáp, xuống dưới nhỏ dần, dài khoảng 20 cm, mặt ngoài có màu nâu vàng hoặc nâu đen, đỉnh rễ có gốc sót, chất dai dẻo, khó bẻ gãy. Mặt cắt có màu nâu vàng đến nâu đen, không phẳng, có mùi tanh, vị đắng và cay chua.

3. Loại giả từ đậu đũa dại: Thường thấy có hình trụ, hình thoi hay hình nón, ít nhánh, dài tới hơn 20cm, đường kính khoảng 0,5 – 1,5cm, bên ngoài có màu nâu đỏ, trong mờ, lông mềm trắng, nhỏ. Không có đầu rễ, để lại vết rễ phần đuôi tương đối nhỏ, chất cứng và giòn, nên dễ bẻ gãy. Mặt cắt phẳng không bóng, có nốt chấm nhỏ màu vàng nhạt và có mùi tanh của đậu.

4. Loại giả từ hoa sơn sâm: Nếu chưa gia công rễ có hình tròn dài, hơi cong hoặc thót dần xuống dưới, dài khoảng 9 – 14cm. Bên ngoài có màu nâu nhạt. Phần trên của rễ là thân rễ có rất nhiều nốt sần nổi lên. Sau khi gia công có 3 loại là màu vàng, màu nâu tro hơi trong hay màu nâu. Chất cứng, dễ gãy, vị ngọt, hơi đắng chát.

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Những lưu ý khi sử dụng nhân sâm


“Thượng phẩm” trong Đông y

Nhân sâm được xếp vào loại đầu tiên trong 4 loại dược liệu quý của Đông y, đó là sâm, nhung, quế, phụ. Nhân sâm có tên khoa học là (Panax ginseng C. A. Mey.), họ nhân sâm (Araliaceae), họ (ngũ gia bì). Trên thực tế do cách chế biến khác nhau, người ta có được các sản phẩm chế của nhân sâm khác nhau, như hồng sâm, bạch sâm, đại lực sâm...

Nhân sâm được Đông y ghi vào loại “thượng phẩm”, nghĩa là có tác dụng tốt mà không gây ra độc tính, được ghi vào đầu vị của dòng “bổ khí” với những công năng tuyệt vời: đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân, định thần, ích trí... Nhân sâm được dùng để bổ khí, đặc biệt cho các trường hợp chân khí suy giảm, người mệt mỏi, vô lực, mới ốm dậy, trẻ em chậm lớn. Tăng cường sinh lý, tăng khả năng hồi phục cho mọi hoạt động cơ thể. Chống và giảm căng thẳng của hoạt động thần kinh, nâng cao sức bền trong hoạt động thể thao. Cải thiện hoạt động tuần hoàn khí huyết, điều hòa ổn định hệ tim mạch, nhất là các triệu chứng tim hồi hộp, loạn nhịp. Có lợi cho các trường hợp ho lao, viêm phế quản mạn tính, tiểu đường. Làm tăng sức đề kháng và tăng khả năng miễn dịch, giúp cho chế độ làm việc dẻo dai hơn, tạo điều kiện để tăng năng suất lao động. Làm chậm quá trình lão hóa của cơ thể, giúp cơ thể vượt qua những thay đổi khắc nghiệt của môi trường. Hỗ trợ tích cực trong phòng và trị bệnh ung thư.

 

 
Người lớn, có thể dùng riêng, ngày 6 - 8g, dưới dạng thuốc hãm, thuốc sắc, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác: nhân sâm 8g; bạch truật, bạch linh, cam thảo, mỗi vị 4-6g, ngày một thang, uống liền 2-3 tuần lễ.

Cũng có thể sử dụng dưới dạng rượu sâm (40g sâm, thái lát mỏng ngâm trong 1 lít rượu trắng 30-35 độ trong 3 - 4 tuần là có thể dùng được. Tiếp tục ngâm lần 2 với 0,5 lít rượu trong 2-3 tuần lễ nữa). Ngày có thể dùng 2 - 3 lần, mỗi lần 30 -50ml. Uống trước các bữa ăn, hoặc vào các buổi tối. Với trẻ em gầy còm chậm lớn, yếu mệt, biếng ăn, có thể dùng với lượng nhỏ hơn, 2 - 4 g/ngày, dưới dạng thuốc hãm.

Lưu ý khi sử dụng nhân sâm

Núm rễ của củ sâm (còn gọi là lô sâm). Để giữ được các hoạt chất khi chế biến và để tạo dáng cho nhân sâm (giống như cái đầu người), người ta đã giữ nó lại. Lô sâm, không có tác dụng bổ mà còn gây ra cảm giác buồn nôn. Do đó cần cắt bỏ đi, trước khi sử dụng.

Khi nói về nhân sâm đã có một lời khuyên mang tính kinh điển: “Phúc thống phục nhân sâm tắc tử”. Vốn là, khi xưa đã có một thầy thuốc, sau khi cho một bệnh nhân uống nhân sâm, người bệnh này đã bị tử vong. Vấn đề là ở chỗ người thầy thuốc này lại cứ cho rằng, ông ta không hề có một sai sót gì cả! Vì trước đó, ông đã từng đọc rất kỹ sách đã chỉ rõ: “Phúc thống phục nhân sâm...”, tức là “đau bụng uống nhân sâm...”. Đáng tiếc là, người thầy thuốc này đã chưa đọc hết hai chữ nữa ở trang sau: “tắc tử”, nghĩa là “ sẽ chết”.

Ngày nay, trên thực tế, nhiều người bị “đau bụng” do viêm gan, viêm dạ dày, viêm ruột co thắt, táo bón... vẫn dùng nhân sâm mà vẫn khỏe mạnh. Rõ ràng ở đây có sự hiểu khác nhau về khái niệm “phúc thống”. Qua kinh nghiệm thực tế, khái niệm “phúc thống” trong trường hợp chết người này là chỉ các triệu chứng đau bụng thuộc “thể hàn”, đau bụng “tiết tả”, tức đau bụng ỉa chảy, đầy bụng, trướng bụng..., nếu dùng nhân sâm sẽ nguy hiểm đến tính mạng, ngoài ra, những người cao huyết áp cũng không nên dùng nhân sâm; những người hay mất ngủ tránh dùng sâm vào buổi chiều và buổi tối.

Nguồn: Sưu tầm

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

Nhân sâm - bài thuốc bổ từ cây nhân sâm

Nhân Sâm còn có tên là viên sâm, dã nhân sâm. Tên khoa học Panax ginseng c. A. Mey. (P. schinseng Nees.) Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae.
Tên nhân sâm do vị thuốc giống hình người. Tên Panax do chữ Hy Lạp pan là tất cả, acos là chữa được, có ý nói vị thuốc chữa được mọi bệnh, ginseng và schinseng là phiên âm chữ nhân sâm.
Mặc dầu vị nhân sâm hiện nay ta vẫn còn phải nhập nhưng công dụng quá phổ biến, nhiều người lầm với một số cây ta có. Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đều đã giúp ta hạt giống và mầm để thí nghiệm trồng thử cho nên chúng tôi giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn và để cố gắng đặt vấn đề di thực được nhân sâm.
Nhân sâm (Radix ginseng hay Radix ginseng sylvestris) là rễ chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây nhân sâm trồng hoặc mọc hoang. Có tác giả xác định hai loại nhân sâm như sau:
1. Nhân sâm mọc hoang:
Panax ginseng c. A. Mey. forma sylvestrc Chao et Shih.
2. Nhân sâm trồng:
Panax ginseng c. A. Mey. forma sativum. Chao et Shih.

A. Mô tả cây nhân sâm
Cây nhân sâm là một cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m. Rễ mẫm thành củ to. Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt. Nếu cây mới được một năm (nghĩa là sau khi gieo được 2 năm) thì cây chỉ có 1 lá với 3 lá chét, nếu cây nhân sâm được 2 năm cũng chỉ có 1 lá với 5 lá chét. Cây nhân sâm 3 năm có 2 lá kép, cây nhân sâm 4 năm có 3 lá kép, cây nhân sâm 5 năm trở lên có 4 đến 5 lá kép, tất cả đều có 5 lá chét (đặc biệt có thể có 6 lá chét) hình trứng, mép lá chét có răng cưa sâu.
Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, cây nhân sâm mới cho hoa, kết quả. Hoa xuất hiện vào mùa hạ. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành, hoa màu xanh nhạt, 5 cánh hoa, 5 nhị, bầu hạ 2 núm. Quả mọng hơi dẹt to bằng hạt đậu xanh, khi chín có màu đỏ, trong chứa 2 hạt. Hạt cây sâm năm thứ 3 chưa tốt. Thường nguời ta bấm bỏ đi đợi cây được 4-5 năm mới để ra quả và lấy hạt làm giống.

B. Phân bố, trồng hái và chế biến
Cây nhân sâm mọc hoang và được trồng ở Trung Quốc, Triều Tiên, vùng Viễn Đông của Liên Xô cũ, còn được trồng ở Nhật Bản, Mỹ, nhưng nổi tiếng vẫn là sâm Triều Tiên và Trung Quốc.
Riêng hai tỉnh Liêu Ninh và Cát Lâm (miền Đông Bắc Trung Quốc) sản lượng hàng năm lên tới 750.000kg.
Tại Triều Tiên, Khai Thành là nơi trồng nhiều nhân sâm nhất, đã có trên 200 năm kinh nghiệm. Việt Nam tuy dã có thí nghiệm trồng bằng hạt và mầm do các nước bạn Triều Tiên, Liên Xô cũ và Trung Quốc giúp nhưng chưa thành công.
Sau đây chúng tôi giới thiệu sơ lược cách trồng và chế biên nhân sâm của Khai Thành (Triều Tiên).
1. Chọn hạt giống:
Chọn ở những cây sâm mọc khoẻ, tốt đã mọc được 4 hoặc 5 năm (vùng Đông Bắc Trung Quốc chọn những cây đã được 5-6 năm) vì cây 3 năm chưa đủ khoẻ cây, 6 năm vỏ hạt cứng quá khó nảy mầm.
2. Gieo hạt
Hạt thu hoạch tháng 8, cuối tháng 10-11 gieo hạt, tưới nước và để nằm dưới đất qua mùa đông có tuyết.
Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm sau, hạt nảy mầm. Tỷ lệ nảy mầm đạt tới 47%. Trong thời gian cây lớn cần tưới đều giữ ẩm thích hợp.
3. Đánh cây con đi trồng
Có thể đánh vào mùa thu (cuối tháng 10 đến trung tuần tháng 11) hoặc vào mùa xuân (đầu tháng 3 đến đầu tháng 4) ngay trong năm đầu sau khi cây nảy mầm. Đánh đi trồng vào mùa xuân thì tốt hơn.
Trong thời gian trồng cần che nắng cho nhân sâm, nên cho ánh nắng buổi sáng chiếu vào nhiều tránh nắng trưa và chiều.
Phân bón dùng phân xanh và khô dầu, không bón thúc bằng phân bắc và nước tiểu.
4. Thu hoạch
Sau 6 năm, vào trung tuần tháng 9 và thượng tuần tháng 10 đào củ, chú ý tránh làm rễ bị đứt, không phơi gió, phơi nắng để giữ nguyên độ ẩm trong sâm. Sau đó chia loại sâm tốt để chế hồng sâm, loại kém để chế bạch sâm.
5. Chế biến nhân sâm
Trên thị trường có nhiều loại sâm do chế biến khác nhau, ở đây chỉ giới thiệu cách chế biến hai loại hồng sâm và bạch sâm của Triều Tiên.
Ít nhất 37g, rửa sạch đất từng củ một bằng bàn chải nhỏ, rửa ở dưới nước, để nguyên cả rễ, kể cả rễ nhỏ, rửa như vậy sẽ được củ sâm trắng ngà. Cho vào nồi hấp ở áp lực hơi nước cao 2 atmotphe từ 1 giờ 20 phút đến 1 giờ 30 phút. Nhiệt độ hấp 80-90°C. Sau đó sấy khô ở nhiệt độ 60-7000C (6-7 giờ) hoặc ở 50- 60° (8-10 giờ) nên sấy khô hết sức mau.
Sau khi sấy khô, dùng tay rứt các rể con để riêng gọi là tu sâm, củ sâm còn lại giống như hình người (nếu không giống thì sửa cho giống) phơi ra nắng từ 7 đến 15 ngày (tuỳ theo sâm to hay nhỏ) là được. Sau đó chia hồng sâm thành hai cấp: Cấp trời (màu đẹp, dáng đều đặn, giống người), còn lại cấp đất. Cuối cùng đóng gói từng cân ta (600g) một. Loại tốt nhất 15 củ nặng 600g loại kém nhất 60 củ=600g.
a)Bạch sâm: Vì sâm này khô và trắng. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn chế hồng sâm thì đem chế bạch sâm.
Trước hết cắt bỏ rễ con, dùng dao tre cạo sạch vỏ mỏng, sau đó phơi nắng cho hơi khô, đem vào sửa thành hình người rồi lại phơi nắng cho khô hẳn. Thời gian phơi cả trước lẫn sau hết chừng 7 đên 15 ngày. Sau đó đóng gói như hồng sâm. Thường hồng sâm được đóng vào hòm gỗ, bạch sâm đóng vào hòm giấy.
Gẩn đây, tại nhiều nuớc, nhân sâm đã được phát triển bằng nuôi cấy mô để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về nhân sâm.

C. Thành phần hoá học
Nhân sâm được nhiều người nghiên cứu từ lâu. Nhưng kết quả còn chưa đáp ứng được đòi hỏi của Các nhà khoa học. Sau đây là một số kết quả:
1. Trong nhân sâm có loại saponin sterolic. Hỗn hợp saponin có tên là panaxozit trước đây gọi là panaquilon hay panakilon.
2. Chất glucoat hoặc hỗn hợp glucoat mang tên là panaxin cũng chưa được nghiên cứu sâu. Tmớc đây gọi là gensenin cũng là một loại sapcmin chưa tinh khiết lắm.
3. Ngoài ra còn có một tí ánh dầu 0,055-0,250% làm cho nhân sâm có mùi đặc biệt, trong đó chủ yếu là chất panaxen
4. Các vitamin B1 và B2, các mendiataza.
5. Tro chừng 3-7% trong đó có chừng 53% axit photphoric.
6. Các tạp chất khác gồm nhựa và chất béo tổng số chừng 1,5%.
Các axit béo gồm hỗn hợp axit paranitic, stearic và linoleic. Hỗn hợp này mang tên axit panaxic.
7. Các chất khác gồm có phytosterin 0,029%- tinh bôt chừng 20%, chất pectin 16-23% và đường 4%. .
8. Mới đây người ta lại thấy trong nhân sâm có hàm lượng germanium cao.

D. Tác dụng dược lý
Được nhiều người nghiên cứu và có rất nhiều tài liệu nói đến. Sau đây chúng tôi chỉ tóm tắt một số kết quả:
1.Tác dụng trên hệ thần kinh:
Từ xưa, tại Trung Quốc người ta đã biết thí nghiệm tác dụng làm giảm mệt của nhân sâm. Ví .dụ trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (thế kỷ thứ 16), có ghi cách thử nhân sâm như sau: “Cho 2 người cùng chạy, một người có ngậm miếng nhân sâm, một người không ngậm, sau khi chạy độ 2 đến 5 dặm người không ngậm nhân sâm sẽ thở mạnh còn người có ngậm nhân sâm vẫn thở như thường”.
Trong các năm 1949-1951 tại Liên xô cũ, Abramôva có thí nghiệm theo phương pháp cho chuột nhắt lội nước thì thấy nhân sâm có tác dụng làm chuột đỡ mệt.
Năm 1947, Lazarev đã nghiên cứu và kết luận rằng nhân sâm có tác dụng hưng phấn thần kinh trung ương, dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt, tăng hiệu suất công tác, so với thuốc phenamin thì tốt hơn.
Năm 1955, Drake theo phương pháp của Zacuxov đã chứng minh liều điều trị của nhân sâm có khả năng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm mau sự chuyển động của thần kinh.
Nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh (Chu Nhân-Chu Kim Hoàng, Trung Hoa y học tạp chí, 12-1956).
2. Tác dụng trên huyết áp và tim :
Các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ: Burkrat và Xakxopov (1947) và Kixêlev (1948-1959) đã nghiên cứu nứơc sắc và cồn nhân sâm, kết luận rằng tác dụng của dung dịch nuớc và dung dịch rượu nhân sâm như sau: Kixêlev dùng dung dịch 5%, 10% và 20% nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nồng độ càng cao tác dụng ức chế trên tim càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì lại co bóp tim mạch và số lần bóp càng tăng, do đó ông đã kết luận rằng nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật: Liều nhỏ có tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị (nerf vague).
3. Tác dụng trên hô hấp :
Năm 1947 Burkrat và Xakxopov đã báo cáo dùng 0,3-0,5ml dung dịch nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo thấy nhân sâm hưng phấn hô hấp.
Một số nhà nghiên cứu Nhật Bàn và Trung Quốc trước đó đã tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất ginsenin thấy liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm axit panaxic hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vậy.
Tuy nhiên ở trên mới chỉ thấy tác dụng khi tiêm còn chưa thấy tài liệu nghiên cứu tác dụng của việc uống nhân sâm đối với hô hấp.
4. Tác dụng đối với chuyển hoá cơ bản:
Năm 1922 hai tác giả Nhật Bản: Hà Bộ Thắng Mã và Nại Đằng Hệ Bình đã nghiên cứu tác dụng của bột nhân sâm và chất tan trong cồn của nhân sâm (uống và tiêm) đối với bệnh huyết đường quá cao nhân tạo trên thỏ, đều thấy có tác dụng rõ rệt làm hạ mức huyết đường xuống.
Năm 1954 và 1956 một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhận trong Trung Hoa nội khoa tạp chí và Trung .Hoa y học tạp chí tác dụng hạ huyết đường của nhân sâm.
Trên lâm sàng người ta đã thấy (Khâu Thần Ba, 1955) rằng nếu dùng nhân sâm chung với insulin thì có thể giảm bớt lượng insulin, thời gian hạ huyết đường được kéo dài hơn và chữa được bệnh tiểu đường.
5. Tác dụng đối với sự sinh trưởng và phát dục của động vật (máu lạnh hoặc máu nóng, côn trùng)
Cho uống hoặc tiêm thuốc chế bằng nhân sâm hoặc các chất lấy từ nhân sâm trên một số động vật so sánh với động vật không dùng nhân sâm, thấy trọng luợng con vật tăng lên, thời gian giao cấu của con vật kéo dài, hiện tượng tình dục xuất hiện rõ rệt.
6. Tác dụng đối với sức chống đỡ bệnh tật :
Những thí nghiệm của Daugolnikov (1950- 1952), Brekhman và Phruentov (1954-1957) và Abramov (1953) cho biết nhân sâm có tác đụng tăng sức đề kháng của động vật đối với tật bệnh.
7. Độc tính của nhân sâm :
Kixêlev đã tiêm vào dưới da chuột nhắt 1ml dung dịch nhân sâm 20% thấy sau 10-12 giờ chuột chết với trạng thái “mất sắc”. Nhưng cho uống thì độc tính rất ít.
E. Công dụng và liều dùng
Nhân sâm là một vị thuốc cổ truyền trong đông y. Các sách cổ thường ghi nhận sâm bổ năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) yên tinh thần, định hồn phách, làm khỏi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa.
Cách dùng trong nhân dân như sau:
1. Sâm thái mỏng, cho vào miệng ngậm và nhai từng ít một, nuốt nước và cả bã.
2. Thái mỏng, cho vào ấm hay chén sứ. Thêm một ít nước đậy nắp. Đun cách thuỷ, uống nước. Sau đó lại thêm nước và đun cách thuỷ tiếp tục uống, làm như vậy cho đến khi hết mùi vị mới thôi.
Ngày dùng 2-6g.
Theo tài liệu cổ, nhân sâm vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (lá có vị đắng, hơi ngọt), vào 2 kinh tỳ và phế. Có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí. Dùng chữa phế hư sinh ho suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hư, sợ hãi, tiêu khát. Những người bệnh có thực tà không dùng được.
Sau đó do các công trình nghiên cứu về nhân sâm đặc biệt của Liên Xô cũ, Trung Quốc, nhân sâm được tây y công nhận và sử dụng coi như thuốc tây.
Dược thư Liên Xô xuất bản lần thứ 9 năm 1961 công nhận nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học Liên Xô.
Có thể dùng duới dạng thuốc sắc 5 hay 10% với liều 15-30ml một lần, ngày dùng 3 lần, hoặc dưới dạng cồn nhân sâm với liều 15 giọt một lần, ngày uống 3 lần.
Vài đơn thuốc có nhân sâm trong đông y
1. Độc sâm thang (đơn thuốc có một vị nhân sâm) chữa cá thể quá suy nhược sau khi mất máu nhiều, thần kinh suy nhược:
Nhân sâm 40g. Nước 400ml (2 bát) sắc còn 200ml (1 bát), cho uống từng ít một, không kể thời gian. Uống xong cần nằm yên.
2. Sâm phụ thang chữa những trường hợp mạch suy, kiệt, mồ hôi ra nhiều, chân tay lạnh:
Nhân sâm 40g (có thể 20g), chế phụ tử 20g (có thể dùng l0g), sinh khương 3 nhát, táo đen 3 quả, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml (1 bát) chia làm nhiều lần uống trong ngày.
Những vị thuốc dùng thay nhân sâm
Trên thị trường hiện nay có nhiều vị dùng lầm với tên nhân sâm. Ngoài các vị được giới thiệu kỹ ở sau như thổ cao ly sâm, bô' chính sâm v.v... còn có vị thái tử sâm hay hài nhi sâm được vùng Giang Tô Trung Quốc dùng thay nhân sâm và cũng có khi đưa bán ở nước ta.
Đó là rễ cây PseudosteUaria raphonorrhha (Hemsl). Pax thuộc họ cẩm chướng Caryophyilaceae. Cây này là một loại cây cỏ nhỏ cao 7-15cm, chưa thấy ở nước ta. Thành phần hoá học và tác dụng dược Lý chưa đuợc nghiên cứu. Có người mới phát hiện trong thái tử sâm có fructoza.
Dùng làm thuốc bổ, chữa trẻ con đổ mồ hôi trộm, kém ăn, với liều 8-12g một ngày

Gs.Ts. Đỗ Tất Lợi

Bài thuốc trị bệnh từ nhân sâm và mật ong

Sử dụng nhân sâm với mật ong là dạng phối ngũ khá độc đáo, dùng để chống suy nhước cơ thể, kéo dài tuổi thọ, chữa liệt dương, suy giảm tình dục.
Sử dụng nhân sâm với mật ong là dạng phối ngũ khá độc đáo mà nhiều người chưa được biết, Chúng tôi xin giới thiệu để độc giả có thể tham khảo.

Công thức 1: Nhân sâm 500g, mật ong 250g, nhân sâm thái vụn sắc kỹ 3 lần, sau đó bỏ bã, hoà với mật ong rồi cô đặc thành dạng cao đặc, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 15g.
Công dụng: diên niên ích thọ, rất thích hợp cho người già cần bồi bổ sức khoẻ để kéo dài tuổi thọ.

Công thức 2: Nhân sâm 3g, mật ong 15g, nhân sâm thái vụn sắc kỹ lấy chừng 200 ml (bã thuốc có thể nhai nuốt), sau đó cho mật ong vào hoà đều, chia uống vài lần trong ngày.
Công dụng: bổ khí, tráng dương, diên niên ích thọ, dùng làm thuốc bồi bổ cho những người suy nhược cơ thể, nam giới liệt dương, suy giảm khả năng tình dục, xuất tinh sớm, di tinh…
bai-thuoc-tri-benh-tu-nhan-sam-va-mat-ong
Nhân sâm kết hợp mật ong có thể chữa nhiều bệnh – Ảnh minh hoạ

Công thức 3: Nhân sâm tươi 30g, sữa bò 150g, lê tươi 500g, mật ong 120g. Nhân sâm thái vụn, sắc kỹ 3 lần, bỏ bã lấy nước cốt ; lê gọt vỏ bỏ hạt, rửa sạch, ép lấy nước ; đổ mật ong, sữa bò, nước lê và dịch chiết sâm và nồi, cô bằng lửa nhỏ thành dạng cao đặc, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 20g.
Công dụng: bổ khí dương âm, thanh phế nhuận táo, dùng đặc biệt tốt cho những người bị bệnh đường hô hấp thể Khí âm lưỡng hư biểu hiện bằng các triệu chứng mệt như mất sức, khó thở, dễ bị cảm mạo, hay vã mồ hôi, ho khan ít đờm, môi khô miệng khát, hoa mắt chóng mặt, hay có cảm giác sốt về chiều, lòng bàn tay bàn chân nóng, tai ù tai điếc, đại tiện táo…

Công thức 4: Nhân sâm 5g, hạch đào nhân 50g, mật ong 300g. Nhân sâm thái vụn, hạnh đào nhân sao thơm tán vụn, hai thứ đem sắc thật kỹ lấy nước rồi hoà với mật ong, cô bằng lửa nhỏ thành dạng cao đặc, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g với nước ấm.
Công dụng: bổ nguyên dương, làm đen râu tóc, phòng chống rụng tóc, chuyên dùng bồi bổ cho những người thể lực suy yếu, thị lực giảm sút, râu tóc sớm bạc, rụng tóc nhiều…

Công thức 5: Nhân sâm 100g, can khương 100g, cam thảo 150g, bạch truật 150g, phụ tử chế 100g, mật ong 650g. Các vị thuốc sấy khô, tán bột, luyện với mật ong thành viên hoàn, mỗi viên nặng 7g, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 viên với nước ấm.
Công dụng : đại bổ nguyên khí, ôn vị tán hàn, chuyên dùng bồi bổ và trị liệu cho những người bị bệnh lý dạ dày đại tràng thuộc thể hư hàn biểu hiện bằng các triệu chứng , mệt như mất sức, bụng lạnh đau âm ỉ, chườm nóng thì đỡ đau, buồn nôn và nôn ra nước trong, đại tiện lỏng nát, sợ lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt nhợt nhạt, chất lưỡi nhợt…

Công thức 6: Nhân sâm 30g, sinh địa tươi 320g, bạch linh 60g, mật ong 400g. Nhân sâm và bạch linh sấy khô tán bột, sinh địa rửa sạch, giã nát, ép lấy nước, sau đó cho tất cả vào nồi cô bằng lửa nhỏ thành dạng cao đặc, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g.
Công dụng : tư âm nhuận phế, ích khí bổ tỳ, chuyên dùng để bồi bổ cho những người bị bệnh đường hô hấp, suy nhược thần kinh, thiểu năng tuần hoàn não, di tinh, liệt dương thuộc thể Khí âm lưỡng hư.

Công thức 7: Nhân sâm tươi (loại được bảo quản trong túi nilon đã hút chân không) 30g, mật ong lượng vừa đủ. Nhân sâm giã nát, ép lấy nước rồi hoà với mật ong, chia uống 2 lần trong ngày, bã có thể hãm nước sôi uống thay trà.
Công dụng: đại bổ nguyên khí, nhuận táo sinh tân, thường được dùng làm nước uống tăng lực cho những người có thể chất suy nhược. Công thức này cũng có thể gia thêm lê 1 quả, táo (loại to nhập từ Trung Quốc) 1 quả, cà rốt 1 củ, tất cả rửa sạch, ép lấy nước uống để làm đồ giải khát, tăng lực và cải thiện làn da cho phụ nữ.
Nhân sâm có nhiều loại khác nhau tuỳ theo nơi khai thác, nguồn gốc địa lý và cách chế biến. Cho đến nay, sâm Triều Tiên (Cao Ly sâm) vẫn được coi là tốt hơn cả, trong đó Hồng sâm (loại to nặng trên 37g, cắt bỏ rễ râu, chế biến sao tẩm với các phụ gia khác rồi đem chưng cách thuỷ, sấy khô và đóng vào hộp gỗ) là tuyệt vời nhất.

Nguồn: Sưu tầm BACSI.com